Cuộc đời Tất-đạt-đa_Cồ-đàm

Các đoạn phía dưới vị trí này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp hoàn thiện Các đoạn phía dưới vị trí này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 10 năm 2019)

Các cách phiên âm tên

Tất-đạt-đa Cồ-đàm, đôi khi cũng được phiên âm là Sĩ-đạt-ta Cù-đàm (悉達多 瞿曇) đều là các kiểu phiên âm Hán-Việt (dùng tiếng Trung phiên âm tiếng Phạn ra chữ Hán, rồi dùng âm Hán-Việt đọc các chữ Hán đó sang tiếng Việt), còn được người đương thời và các Phật tử sau này tôn xưng là Shakyamuni (शाक्यमुनि), tiếng Trung phiên âm thành 释迦牟尼, Hán-Việt đọc là "Thích-ca-mâu-ni", hay thường gọi đơn giản là Bụt; Devanagari: बुद्ध ; phiên âm Hán Việt từ tiếng Trung: 佛 (Phật).

Bối cảnh và gia thế

Bản đồ các vương quốc ở Ấn Độ khoảng năm 500 trước Công nguyên

Dù có nhiều hoài nghi và do dự trước đây, nhưng sau các khám phá khảo cổ vào đầu thế kỷ 20, hầu hết các học giả ngày nay đều công nhận ông đã sống và truyền dạy giáo lý trong thời Mahajanapada dưới thời cai trị của Bimbisāra (Tần-bà-sa-la)( 558 - 491 TCN) và qua đời trong thời gian đầu của triều đại Ajātaśatru (A-xà-thế), người kế thừa của Bimbisāra. Cuộc đời của Siddhartha không những trùng hợp với thời kỳ phát triển của Bà-la-môn, mà còn trùng với sự phát triển của trường phái tu khổ hạnh Sramana như Kỳ-na giáo, Ājīvika, Ajñana, Cārvāka (triết học duy vật khoái lạc).

Thời điểm chính xác năm sinh theo lịch hiện đại của ông không được ghi nhận rõ, dao động trong khoảng từ 624 tới 563 trước Công nguyên. Tuy nhiên, đại hội Phật giáo thế giới đã thống nhất cho rằng Siddhartha sinh khoảng năm 624 trước Công nguyên[8] và qua đời khi 80 tuổi (năm 544 TCN).

Cha ông là Suddhodana (Tịnh-phạn), người đứng đầu tiểu quốc Shakya (Thích-ca), một tiểu quốc nằm ở vùng biên giới Ấn Độ - Nepal ngày nay, có kinh đô là Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ)). Mẹ ông là Maya (Ma-da), người tiểu quốc Koli láng giềng.

Cuộc sống ban đầu và hôn nhân

Tất-đạt-đa được sinh ra tại vườn Lumbini (Lâm-tỳ-ni), nay thuộc Nepal.

Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm thân mẫu Phật của bà Maya như sau: cách đây 91 đại kiếp Trái đất, đã có 1 vị Phật Chánh Đẳng Giác tên là Vipassī (Phật Tỳ-bà-thi) ra đời. Có một công nương (con một vị đại thần trong triều đình) đã cúng dường Phật Tỳ-bà-thi với lòng chí thành và ước nguyện rằng trong tương lai, cô sẽ được làm mẹ của 1 vị Phật. Đức Phật Tỳ-bà-thi đã thọ ký cho cô sẽ được như nguyện. Công nương đó chính là tiền kiếp của hoàng hậu MayaNhà tiên tri Asita (A-tư-đà) dự đoán sau này đứa trẻ Siddhartha sau này sẽ trở thành đấng giác ngộ và truyền dạy chánh pháp cho thế gian

Trước đó mười tháng, trong khi được vua cho phép giữ 8 giới thanh tịnh nhân dịp lễ cầu mưa (Asadh Utsav), tại thành Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ), hoàng hậu Maya nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà, vòi cuốn một hoa sen lớn màu trắng, từ trên trời bay xuống chui vào hông phải của bà, lúc đó bà cảm thấy thân tâm khoái lạc, sáng chói như ánh trăng rằm. Thức dậy, bà đem chuyện giấc mộng kỳ lạ kể cho nhà vua nghe. Nhà vua liền cho mời 64 nhà tiên tri Bà-la-môn đến giải mộng; các vị này đoán là hoàng hậu đã mang thai và hoàng tử sắp được sinh ra sẽ là một đại đế hoặc một thánh nhân tiếng tăm lừng lẫy.

Theo các kinh điển Phật giáo, ngay từ lúc sinh ra, ông đã có đầy đủ tướng tốt (Ba mươi hai tướng tốt). Tên được chọn là Siddhartha (Tất-Đạt-Đa) có nghĩa là “người thành đạt nguyện vọng”.

Lúc này Vua Suddhodana nghe 1 tin đồn sẽ có 1 vị cao nhân đến thăm. Người đó là tu sĩ Asita (A-tư-đà), đã chứng thiền tới cấp rất cao - Phi tưởng phi phi tưởng. Khi xem các tướng của thái tử thì thái tử giơ 2 chân lên đầu Asita, ngài nhìn xuống lòng bàn chân và nói "Dưới 2 lòng bàn chân của thái tử, có hình bánh xe ngàn căm và 32 tướng tốt, sau này chắc chắc thái tử sẽ là một nhà tu hành đắc đạo, hoặc là một chuyển luân thánh vương cai trị toàn Ấn Độ". Khi tiên nhân Asita vừa nói xong ngài bật khóc, vua Suddhodana hỏi tại sao khóc thì tiên nhân Asita đáp lại rằng "sau này tôi không thể nghe 1 bậc thánh nhân giảng pháp vì tôi đã quá già rồi" (tu sĩ Asita đã tiên tri được rằng thọ mạng của ông sắp hết, ông sẽ qua đời trước khi Siddhartha thành đạo). Nói xong vua cha Suddhodana bực tức, nói rằng "Con ta sẽ là 1 bậc chuyển luân thánh vương, và sẽ là 1 Kshastriya (Sát-đế-lỵ), nên tôi xin mời tiên nhân về cho, tôi còn phải cho các thần dân xem con tôi đã". Lúc này tiên nhân Asita đi về và nén lại giữa đám đông để nhìn mặt của thái tử và đệ tử ông cũng có hỏi rằng "tại sao ngài không về", Asita đáp "Vì ta đang nhìn cả 1 vũ trụ lần cuối".

Tranh vẽ thái tử Siddhartha và bà Mahaprajapati (tranh vẽ theo phong cách Hy Lạp cổ)

Bảy ngày sau khi sinh thì hoàng hậu Maya - mẹ của Siddhartha mất, ông được người dì ruột là Mahāpajāpatī Gotamī (Ma-ha-ba-xà-ba-đề) - Đại-Ái-Đạo Kiều Đàm Di chăm sóc. Bà Gotamī là em gái của hoàng hậu Maya (cả hai cùng kết hôn với vua Suddhodana) đã tình nguyện nhận nuôi dưỡng Thái tử Siddhartha, còn con ruột của mình là Nanda thì giao lại cho người vú chăm sóc. Về sau, khi Siddhartha đã đắc đạo, Bà Gotamī đã xin Phật cho phép xuất gia, trở thành nữ đệ tử (Tỳ-kheo ni) đầu tiên của Phật giáo và sau này đã đắc quả A-la-hán:

Kinh Phật nói rằng mẹ của mọi vị Phật đều sẽ qua đời vào 7 ngày sau khi sinh (bởi phước báu quá lớn của việc đản sinh ra Phật sẽ giúp người mẹ xả bỏ thân xác yếu ớt và thọ mạng ngắn ngủi của con người để tái sinh làm thần trên cõi Trời). Sau khi qua đời, bà Maya đã tái sinh làm 1 vị thần trên cõi trời Đâu-suất có tên là Māyādevaputta. Sau này khi thành đạo, Phật Thích Ca đã dùng thần lực để thuyết Vi diệu pháp cho vị thần (tiền kiếp là mẹ mình) trên cõi trời này để tỏ lòng biết ơn thân mẫu.Về bà Gotamī, Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm dưỡng mẫu Phật của bà như sau: cách đây 100.000 đại kiếp Trái đất, đã có Phật Padumuttara truyền đạo trên thế gian. Có một công chúa đã cúng dường Phật với lòng chí thành, một hôm khi đang nghe Phật Liên Hoa thuyết pháp, công chúa nhận thấy có một Tỳ kheo ni thật đáng tôn quý, đứng đầu hội chúng Tỳ kheo ni, và là người nữ đệ tử đạt giác ngộ sớm nhất. Bà liền lập nguyện rằng, trong tương lai, do công đức tu tập, bà sẽ được như vị Tỳ kheo ni ấy. Lời nguyện của bà đã được Đức Phật Padumuttara ấn chứng là sẽ thành tựu trong thời kỳ của Đức Phật Shakya (Thích-ca). Công chúa đó chính là tiền kiếp của bà Gotamī

Do lời tiên đoán rằng thái tử sẽ bỏ đi tu hành "sau khi thấy một người già, một người bệnh, một xác chết và một sa môn" nên vua Suddhodana tìm đủ mọi cách cho Siddhartha hưởng đầy đủ lạc thú trong hoàng cung, không bao giờ phải nhìn thấy các cảnh khổ đau, bệnh hoạn, già chết ở đời.

Siddhartha đã sống một cuộc sống thanh tịnh. Vua Suddhodana vốn muốn con ông nối nghiệp mình nên không muốn thái tử đi tu. Ông đã cho nhiều người danh tiếng dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, cho thái tử hưởng đầy đủ vinh hoa phú quý, nhất là không để thái tử tiếp xúc với cảnh khổ của cuộc đời. Sau này, Phật kể lại: "Đời sống của ta (lúc bấy giờ) thật là tế nhị, vô cùng tinh tế. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh sen trắng đua nhau khoe vẻ đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Kāsi đưa về. Khăn và xiêm áo của ta cũng may toàn bằng hàng lụa bậc nhất từ Kāsi chở đến".

Tranh vẽ đám cưới của thái tử Siddhartha với công chúa Yaśodharā, người vợ của Phật trước khi ông xuất gia

Năm lên 18 tuổi, Siddhartha kết hôn với công chúa Yaśodharā (Da-du-đà-la) của thị tộc Koli.

Theo Kinh Bản Sinh, cách đây 4 A tăng kỳ và 100.000 kiếp Trái Đất, tiền thân của Tất-đạt-đa là tu sĩ Sumedha (Thiện Huệ). Khi đó có đức Phật tại thế là Dīpankara (Phật Nhiên Đăng). Sumedha nhìn thấy Phật Dīpankara tận mắt, liền phát nguyện sẽ cố gắng tu học cho đến khi được hoàn toàn giác ngộ như Phật. Sumedha xin được hoa sen của 1 cô gái tên là Sumita, chàng chí thành tung năm hoa sen của mình lên không trung để cúng dường Phật. Sumita cũng trao cho chàng 2 bông hoa sen nhờ dâng cúng dùm, với tâm nguyện rằng đời đời kiếp kiếp luân hồi về sau sẽ luôn là vợ của Sumedha, trợ giúp chàng trong muôn kiếp luân hồi cho tới khi chàng thành Phật. Sau đó, Sumedha còn nằm sát đất, lấy thân mình để giúp Phật bước qua vũng lầy. Đức Phật Dīpankara hoan hỉ thọ ký rằng 2 người sẽ đạt tâm nguyện: Sumedha sẽ thành Phật hiệu là Sākyamuni (Thích-ca Mâu-ni) trong đời Hiền kiếp (Bhadra kalpa), còn cô gái Sumita sẽ luôn là vợ của chàng trong các kiếp luân hồi, cho tới khi chàng thành Phật.Tu sĩ Sumedha thời xa xưa đó chính là tiền kiếp của thái tử Siddhartha, còn cô gái Sumita chính là tiền kiếp của công chúa Yaśodharā.

Tuy thế, theo mô tả của các kinh điển Phật giáo, các dục lạc không thể giữ chân Siddhartha. Do nhân duyên không thể tránh khỏi, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, thái tử Siddhartha phát tâm tu hành. Rồi trong một đêm, ông lặng lẽ từ biệt hoàng cung, quyết định sống cảnh không nhà của một tu sĩ.

Tương truyền rằng, cả bốn người trong cảnh ngộ vừa kể là do các vị thần trên thiên giới biến hóa thành nhằm nhắc nhở ông lên đường tu thành Phật quả. Siddhartha thấy rằng ba cảnh đầu tượng trưng cho cái Khổ trong thế gian và hình ảnh tu sĩ chính là cuộc đời của ông.
  • Giấc mơ thấy voi trắng vào bụng của Maya.
  • Hoàng hậu Maya trên xe ngựa ghé qua Lumbini.
  • Thái tử ra đời từ hông phải gần Lumbini.
  • Vua Suddhodana và đoàn tùy tùng.

Xuất gia

Năm 29 tuổi, công chúa Yaśodharā hạ sinh một bé trai. Tất-đạt-đa thấy rằng việc có con khiến cho mong muốn rời nhà đi tu trở nên khó khăn hơn, nên đặt tên đứa trẻ là Rāhula (nghĩa là Chướng ngại).

Một đêm, Siddhārtha hạ quyết tâm từ bỏ cuộc sống xa hoa, lìa cung điện bất chấp nỗ lực ngăn cản của cha mình. Trong đêm tối, Tất đạt đa gọi người nô bộc trung thành là Channa (Sa-nặc) lấy con ngựa Kanthaka (Kiền Trắc) rồi ra đi. Khi tới bờ sông Anomà, Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu, cắt tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Channa, lệnh cho Channa trở về thông báo việc này cho phụ hoàng. Sử sách Phật giáo xác định rằng đó là rạng ngày mồng 8 tháng 2 năm 595 trước công nguyên, và gọi đó là cuộc "Đại xả li", hoặc "Đại xuất hành (cuộc ra đi vĩ đại)"

Tranh vẽ cảnh Siddhārtha cưỡi ngựa Kanthaka rời hoàng cung, bám theo sau là người hầu ChannaBức tranh kể về Siddhārtha và ngựa Kanthaka lên đường xuất giaTương truyền rằng, các vị trời trên thiên giới đã phù phép để các lính canh ngủ gục, giúp chuyến ra đi của thái tử Siddhārtha diễn ra thuận lợi. Khi thái tử Siddhārtha cắt tóc và ném lên trời, mớ tóc không rơi xuống mà bay vút lên không trung rồi biến mất, do Śakra (Đế Thích) đã hứng lấy mớ tóc đó đem về thờ phụng trong bảo tháp trên cõi trời Tavatimsa (Ðao-lợi) (một cung trời trong quan điểm Phật Giáo). Sau khi trở về, ngựa Kanthaka vô cùng buồn bã, bỏ ăn mấy ngày rồi chết. Nhờ thiện nghiệp đưa thái tử đi xuất gia, ngựa Kanthaka được tái sanh làm một vị tiên nam trên cung trời Tavatimsa , về sau vị thần này đã được gặp tôn giả Moggallāna (Mục-kiền-liên) - 1 trong 2 đại đệ tử của Phật, và kể lại chuyện tái sinh của mình.Khi kể lại câu chuyện, vị thần Kanthaka có những vần thơ mô tả lại cảnh tượng này như sau:Vào nửa đêm vương tử xuất gia.Ði tìm giác ngộ, giã từ nhàNgài bảo tôi, vừa thúc mạn sườn:"Hãy mang ta, hỡi bạn hiền thươngKhi nào giác ngộ đường vô thượngTa sẽ giúp người khắp thế gian".Khi biết hoàng nam Suddhodana,Ðại danh lừng lẫy, cỡi lưng mìnhVới tâm phấn khởi, đầy hoan hỉTa rước người vô thượng chí tôn.

Siddhārtha bắt đầu thử cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau. Ông quyết tâm tìm cách diệt khổ và tìm mọi đạo sư với các giáo phái khác nhau. Theo truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Các vị đạo sư khổ hạnh danh tiếng thời đó là A-la-la Ca-lam (阿羅邏迦藍, sa. ārāda kālāma, pi. āḷāra kālāma) và Ưu-đà-la La-ma tử (優陀羅羅摩子, sa. rudraka rāmaputra, pi. uddaka rāmaputta). Nơi A-la-la Ca-lam, Tất-đạt-đa nhanh chóng đạt đến cấp Thiền Vô sở hữu xứ (sa. ākimcanyāyatana, pi. ākiñcaññāyatana), nơi Ưu-đà-la La-ma tử thì học đạt đến cấp Phi tưởng phi phi tưởng xứ (sa. naivasamjñā-nāsaṃñāyatana, pi. nevasaññā-nāsaññāyatana), là trạng thái siêu việt nhất của thiền định.

Nhưng Siddhārtha cũng không tìm thấy nơi các vị đó lời giải cho thắc mắc của mình. Ngay cả cấp độ thiền định cao nhất là "Phi tưởng phi phi tưởng xứ" chưa đạt đến mức độ triệt để cho việc giải thoát khỏi khổ đau, không phải là chân lý tối hậu, nên ông quyết tâm tự mình tìm đường giải thoát. Có 5 Tỳ-kheo (năm anh em Kondañña, (Kiều-trần-như) đồng hành cùng ông).

Sau 5 năm tu khổ hạnh, có lúc gần kề cái chết, Siddhārtha nhận ra đó không phải là cách tu dẫn đến giác ngộ, bắt đầu ăn uống bình thường, 5 Tỳ-kheo kia thất vọng bỏ đi. Cách tu cực khổ được Phật nhắc lại sau khi thành đạo như sau[9]:

Tranh vẽ cảnh Siddhārtha tu khổ hạnh với năm anh em KondaññaNày Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hạt hay súp đậu nhỏ." Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn chân của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Gautama có da đen." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gautama, da không đen, Sa-môn Gautama có da màu xám." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gautama da không đen, da không xám." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gautama da không đen, da không xám, Sa-môn Gautama có da màu vàng sẫm." Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít."

Không đạt giải thoát với cách tu khổ hạnh, ông từ bỏ cách tu này. Quả quyết rằng mình đã đi đến chỗ cùng cực của công phu tu khổ hạnh và khổ hạnh không dẫn đến giác ngộ, ông tìm phương pháp khác, và nhớ lại một kinh nghiệm thời thơ ấu, lúc đang ngồi thiền dưới gốc cây mận[9]:

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng Shakya (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi thiền dưới bóng mát cây jambu (diêm-phù-đề), Ta li dục, li pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỉ lạc do li dục sinh, có tầm, có tứ." Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ." Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không sợ lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện."

Đạt tới giác ngộ

Sau 5 năm tu khổ hạnh không đạt kết quả, Siddhārtha quyết định ăn uống bình thường trở lại, đến Giác Thành. Siddhārtha thường đến bờ sông Nairanjana (Ni-liên-thiền, hiện nay là sông Phalgu) ngồi thiền định trên bãi cát. Một hôm, có hai cô bé chăn bò tên Nanda và Bala đang dắt bò xuống sông tắm thì thấy Siddhārtha đang ngồi thiền định, họ sanh lòng kính mến liền tự tay vắt lấy sữa bò, nấu chín rồi dâng lên. Siddhārtha ăn xong cảm thấy thân thể khoẻ mạnh.

Ðến ngày thứ 49, Siddhārtha ngồi thiền định dưới gốc cây cổ thụ Ni-câu-đà (cách cây Bồ-đề khoảng 150m về hướng đông), sắp đi khất thực, thì có hai chị em nàng Sujata (Tu-Xà-Đề), con ông trưởng làng Senani, mang bát cháo sữa (kheer) đến cúng vị Thần gốc cây để tạ ơn. Khi thấy Siddhārtha đang tĩnh tọa, hai nàng đặt bát cháo sữa bằng vàng trước mặt, cung kính đảnh lễ rồi ra về. Sau khi ăn xong bát cháo sữa, Siddhārtha thấy cơ thể khoẻ mạnh lạ thường nên không đi khất thực mà xuống sông Nairanjana tắm, tâm trạng ông vô cùng phấn chấn, cảm thấy sắp đạt thành tựu viên mãn.p

Tương truyền rằng sau khi rửa bát xong, ông để cái bát bằng vàng trên dòng nước và nguyện rằng: "Nếu hôm nay ta được chứng quả thành Phật, thì nguyện cho cái bát nầy nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông". Quả nhiên cái bát nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông 80 sải tay, đến khi gặp phải một xoáy nước mạnh thì chìm xuống đáy sông, đúng nơi có 3 chiếc bát vàng của 3 vị Phật đắc đạo trước Siddhārtha trong Hiền kiếp này (Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp)

Sau đó, Siddhārtha đi trở lên bờ, đến cội Bồ-đềBodh Gaya (Bồ-đề Đạo Tràng) và nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Trước khi ngồi, ông thầm nghĩ làm thế nào có một tòa ngồi cho yên tĩnh, trang nghiêm. Bỗng thấy một em bé tên là Sotthiya Svastika (Cát-tường) gánh cỏ đi ngang qua đó, ông gọi lại hỏi xin một mớ cỏ để làm tòa ngồi. Em bé cung kính dâng ông sáu bó cỏ sắc (kusha) mềm mại và có hương thơm. Ông xấp cỏ thành tọa cụ và bồ-đoàn, ngồi kiết già, lưng thẳng đứng hướng về phía gốc cây, mặt hơi cúi xuống nhìn về hướng đông, phía bờ sông Nairanjana.

Tranh vẽ cảnh ma vương Mara tìm cách ngăn chặn thái tử Siddhārtha đạt tới giác ngộ

Đêm hôm đó, Siddhārtha bắt đầu thực hành các pháp thiền định. Cuối cùng, ông đạt Diệt-Thọ-Tưởng định (Nirodha-samapatti), tỏa ra uy năng chiếu khắp Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới). Ma vương Mara (Ba-tuần - vua cõi trời Tha Hóa Tự Tại) không muốn ông đắc đạo, đã quấy nhiễu bằng nhiều phương thức, nhưng cuối cùng đều thất bại. Ba cô con gái của ma vương tên là Tanhā (Ái Dục), Aratī (Bất Mãn) và Ragā (Tham Vọng) hóa ra ba nàng tiên tuyệt đẹp để quyến rũ, nhưng cũng chịu thất bại.

Sau khi hàng phục ma vương xong, Siddhārtha tiếp-tục nhập Diệt-Thọ-Tưởng định và bắt đầu chứng đắc các đạo quả:

  • Tận diệt các vi-tế phiền-não (Kammavasa) còn ẩn náu trong tâm làm nghiệp nhân cho Sinh-Tử Luân-Hồi (Samsara). Ðến canh một đêm đó, ông chứng Túc-Mạng-Minh (Pubbe-nivasanussati-nana), biết rõ tất cả các tiền kiếp của ông (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết thế nào, rồi tái sinh thế nào...)
  • Tận diệt các vi-tế vô-minh (Avidyasava). Ðến canh ba, ông chứng Thiên-Nhãn-Minh (Cutupapata-nana), biết rõ tất cả sự biến chuyển của vạn vật qua các giai-đoạn thành, trụ, hoại, không; và biết rõ tất cả chúng sanh (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết cách nào, rồi tái sinh thế nào...) Ông biết rõ tất cả nhân duyên nghiệp báo của chúng sinh, từ đó suy ra luật Nhân-Quả và Luân-Hồi.
  • Tìm ra phương cách giúp chúng sinh chấm dứt phiền-não và vô-minh, đạt đến giác ngộ hoàn toàn, thoát ra khỏi vòng Sinh-Tử Luân-Hồi. Ðến canh năm, ông chứng Lậu-Tận-Minh (Asavakkhaya-nana): Do đã biết rõ tất cả các tiền kiếp của chính bản thân mình và của mỗi chúng sinh, nên ông nhận thấy rõ-ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc chân-thật vĩnh-cửu và làm thế nào để đạt được nó. Ông đã tìm ra Tứ Thánh Đế (Khổ, Tập, Diệt, Ðạo).
Tranh vẽ cảnh thái tử Siddhārtha đạt tới giác ngộ

Theo sử Phật giáo, đó là ngày mùng 8 tháng chạp âm lịch năm 589 TCN). Ở tuổi 35, Siddhārtha đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc anuttara samma sambodhi (Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác), là đức Phật Shakyamuni (Thích-ca Mâu-ni) với Thập hiệu:

  1. Như Lai (tathāgata), là "Người đã đến như thế" hoặc "Người đã đến từ cõi Chân như"; tuệ giác của Đức Phật như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
  2. Ứng Cúng (arahant), dịch nghĩa là A La Hán, là "Người đáng được cúng dường", đáng được tôn kính.
  3. Chính Biến Tri­ (samyaksaṃbuddha), dịch theo âm là Tam-miệu-tam-phật-đà, là "Người hiểu biết đúng tất cả các pháp".
  4. Minh Hạnh Túc (vidyācaraṇasaṃpanna), nghĩa là "Người có đủ trí huệđức hạnh", tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
  5. Thiện Thệ (sugata), là "Người đã đi một cách tốt đẹp"
  6. Thế Gian Giải (lokavid), là "Người đã thấu hiểu thế giới"
  7. Vô Thượng sĩ (anuttarapuruṣa), là "bậc tu hành tối cao, không ai vượt qua"
  8. Điều Ngự Trượng Phu (puruṣadamyasārathi), nghĩa là "Người đã chế ngự được bản ngãnhân loại", có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
  9. Thiên Nhân Sư (devamanuṣyānāṃ śāstṛ), là "Bậc thầy của cõi người và cõi trời"
  10. Thế Tôn (buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), là "Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính"

Từ thời điểm đó, Siddhārtha biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh một lần nào nữa. Kinh nghiệm giác ngộ được ghi lại như sau trong kinh sách theo chính lời của Siddhārtha như sau[10]:

"... Sau khi hoàn lại sinh lực (sau khi tu khổ hạnh vô ích), ta chú tâm giải thoát khỏi những tư tưởng tham ái, bất thiện và đạt được sơ thiền, sau đó nhị thiền, tam thiền và tứ thiền, nhưng những cảm giác hỉ lạc này không để lại dấu vết gì trong tâm ta.Khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc, không bị dục vọng cấu uế, nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về những ký ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm,..., trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới. 'Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta... Ta đã chết như vầy...'. Sự hiểu biết (sa. vidyā, pi. vijjā) đầu tiên này ta đã đạt được trong canh đầu [11]...Sau đó ta chú tâm đến sự sinh thành và hoại diệt của chúng sinh. Với con mắt của chư thiên, trong sáng, siêu việt mọi giới hạn nhân thế, ta thấy chúng sinh hình thành và tiêu hoại,...chúng sinh tái sinh theo nghiệp lực. Ta nhận ra rằng 'Chúng sinh tạo nghiệp bất thiện qua ba ải thân khẩu ý đều chìm đắm sau khi chết, tái sinh trong đoạ xứ, địa ngục. Các chúng sinh nào tạo thiện nghiệp bằng thân khẩu ý được tái sinh trong thiện đạo, sau khi chết được lên cõi thiên'... Sự hiểu biết thứ hai này ta đã đạt được trong canh hai [12].Sau đó ta chú tâm nhận thức về sự tiêu diệt các lậu hoặc (漏, sa. āsrava, pi. āsava) và nhìn nhận như thật: 'Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là phương pháp tiêu diệt khổ, đây là con đường tiêu diệt khổ', và khi ta nhận thức được điều này, tâm ta thoát khỏi dục vọng, ham muốn tồn tại, vô minh. Ta tự hiểu chân lý 'Tái sinh ta đã đoạn, cuộc sống tu tập của ta đã hoàn tất, ta đã hoàn thành những gì phải làm. Cuộc sống (khổ đau) này ta đã vượt qua'... Sự hiểu biết thứ ba này ta đã đạt được trong canh ba [13]...".

Siddhārtha lúc đó biết rằng kinh nghiệm giác ngộ của mình không thể dùng ngôn từ hay bất cứ một cách nào khác để truyền đạt, cũng như ông thấy con người đã bị áp đảo bởi vô minh, tham lam và thù hận nên họ rất khó có thể nhận ra "con đường giác ngộ", vốn rất sâu sắc và khó nắm bắt. Siddhārtha nghĩ rằng: "Giáo pháp mà Ta đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi lý luận, rất tế nhị, chỉ có bậc hiền thánh mới thấu hiểu. Nếu Như Lai truyền dạy giáo pháp ấy thì kẻ khác sẽ không hiểu được. Thật hoài công! Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không thấy được giáo pháp, vì bị tham ái bao phủ như đám mây đen kịch. Giáo Pháp đi ngược dòng đời, sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị". Nên ông tiếp tục yên lặng ngồi quán chiếu tâm chúng sinh dưới gốc cây Bồ-đề một thời gian. Sau đó, có một vị Phạm ThiênSahampati đã thỉnh cầu Siddhārtha hoằng dương chánh pháp (trong thời xa xưa, tiền kiếp của vị Phạm Thiên này là bạn của Jotipala - tiền kiếp của Siddhārtha vào đời Phật Ca Diếp). Với lòng thương yêu chúng sinh, ông chấm dứt sự yên lặng và quyết định chuyển Pháp Luân, dựa vào căn cơ của chúng sinh để thuyết Pháp cứu độ. Từ đó ông có danh hiệu Shakyamuni (Thích-ca Mâu-ni) — "Trí giả của dòng dõi Thích-ca".

Thành lập tăng đoàn và truyền giảng giáo lý

Xem thêm: Trapusa và Bahalika, Thập đại đệ tử

49 ngày sau khi đắc đạo, Phật chỉ thiền định, không ăn uống. Đến ngày từ 49, có hai thương gia người Miến Điện tên Tapassu và Bhallika từ Ukkala (hiện nay là Orissa) đến. Hai thương gia sửa soạn bột rang và mật ong rồi đến trước Phật rồi cung kính dâng lên. Phật nhận lãnh rồi khuyên 2 thương gia quy y Phật và quy y Pháp, thọ trì năm giới để được phước báo lâu dài. Hai thương gia đồng ý, xin Phật thu nhận vào hàng thiện tín (Upāsaka, nam cư sĩ). Đó là hai thiện tín đầu tiên đã quy y Nhị Bảo (Phật và Pháp, khi đó chưa có Tăng). Sau khi đã được Đức Phật ban pháp quy y và truyền năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, không nói dối), hai vị thương gia xin ông ít vật lưu niệm để luôn luôn tưởng nhớ đến ông. Đức Phật tặng cho hai vị 8 sợi tóc và móng tay, rồi ban lời tiên tri: "Các ông vậy là có đại nhân duyên. Mấy sợi tóc của Như Lai không phải đơn giản. Sau này, lúc Như Lai nhập diệt rồi, ở xứ các ông sẽ thịnh hành giáo pháp diệt khổ nhiều ngàn năm". Hai vị cung kính nhận lãnh, lạy tạ rồi mang về Miến Điện xây tháp thờ. Hiện nay, Phật giáo là quốc giáo của Miến Điện, 8 sợi tóc bảo vật này vẫn còn được giữ gìn cẩn thận trong bảo tháp của chùa Shwedagon tại thủ đô Rangoon (Ngưỡng Quang) của Miến Điện, được người Myanmar xem là quốc bảo.

Sau khi giác ngộ, Phật có ý định gặp 2 vị thầy cũ của mình là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta để truyền đạo, bởi 2 người đều là bậc tu sĩ đã đạt cảnh giới thiền rất cao, không còn bị che mắt bởi dục lạc. Nhưng cả hai vị đều đã qua đời cách đó ít lâu.

Tranh vẽ cảnh Tất-đạt-đa giảng đạo cho năm anh em Kiều Trần Như. Đây là 5 vị tỳ kheo đầu tiên của tăng đoàn Phật giáo

Ông quyết định tới gặp năm người bạn đồng tu xưa kia của mình đang ở tại vườn Nai gần Benarès và truyền dạy giáo lý của mình cho họ. Tất cả năm vị sau đó đều trở thành A-la-hán. Sự kiện này diễn ra vào một ngày trăng rằm, đúng hai tháng sau khi Tất-đạt-đa thành đạo. Trong bài thuyết pháp đầu tiên này, ông đề xướng con đường Trung đạo, một sự bác bỏ đối với hai thái cực khác nhau của các học thuyết của Ấn Độ thời đó:[14]

Này các tỳ khưu, đây là hai cực đoan mà bậc xuất gia không nên thực hành: Đây là sự say đắm về dục lạc trong các dục, kém cỏi, thô thiển, tầm thường, không cao thượng, không đem lại lợi ích, và đây là sự gắn bó với việc hành hạ bản thân, đau khổ, không cao thượng, không đem lại lợi ích. Này các tỳ khưu, sau khi không tiếp cận cả hai cực đoan ấy, lối thực hành trung hòa đã được đức Như lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn. Này các tỳ khưu, lối thực hành trung hòa ấy đã được đức Như lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn là thế nào? Đó chính là Thánh Đạo Tám Chi Phần tức là sự hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh, nói lời chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nuôi mạng chân chánh, tinh tấn chân chánh, ghi nhớ chân chánh, định tâm chân chánh...
— Phật Thích-ca

Ông bắt đầu giảng pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, ông đã giảng Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Duyên khởi, quy luật Nhân quả (Nghiệp) và nhiều bài pháp khác mở rộng phù hợp với căn cơ của nhiều người. Tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Ba-la-nại (Benares hay còn gọi là Varanasi), ông bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân". Ông đi nhiều nơi, nhiều vùng miền ở lục địa Ấn Độ, giảng giải giáo pháp và điều này diễn ra liên tục từ năm này qua năm khác.

Ông hay lưu trú tại Vương-xá (zh. 王舍城, sa. rājagṛha), Xá-vệ (zh. 舍衛城, sa. sāvatthī) và Phệ-xá-li (zh. 吠舍釐, sa. vaiśālī), sống bằng khất thực, không nhà ở cố định. Thông qua những lời dạy của mình về chân lý cuộc đời, Tất-đạt-đa đã dần dần gây dựng được một đội ngũ đệ tử lớn gồm 4 thành phần: tỳ-kheo (nam tu sĩ), tỳ-kheo-ni (nữ tu sĩ), ưu-bà-tắc (nam cư sĩ), ưu-bà-di (nữ cư sĩ). Trong hàng đệ tử tại gia của ông có những nhân vật quyền thế như vua Tần-bà-sa-la (zh. 頻婆娑羅, sa. bimbisāra) và vương hậu Vi-đề-hi (Vaideli) của xứ Ma-kiệt-đà, vua Ba-tư-nặc và vương hậu Mạt-lợi (Mallika) nước Kiều-tát-la. Chính Vua Tần-bà-sa-la đã dâng cung cho Tăng đoàn ngôi tu viện đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, đó là Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) tại kinh đô Vương-xá. Ngoài ra trưởng giả Cấp Cô Độc, một thương gia giàu có ở kinh thành Xá-vệ, cũng cúng dường cho giáo đoàn của Phật Thích-ca cũng được một ngôi tịnh xá trong khu vườn của Thái tử Kỳ-đà tại Xá-vệ, được kinh điển gọi là tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana). Kinh Phật cho biết Cấp Cô Độc đã lót vàng khắp sân vườn để mua lại nó từ tay Thái tử Kỳ-đà, con trai quốc vương Ba-tư-nặc. Các đệ tử quan trọng của ông là A-nan-đà, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ma-ha-ca-diếp, A-na-luậtPhú-lâu-na. Cũng trong thời gian này, đoàn Tỉ-khâu-ni (sa. bhikṣuṇī) được thành lập do di mẫu của Tất-đạt-đa là bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề làm ni trưởng.

Cuộc đời ông cũng gặp nhiều người xấu muốn ám hại. Trong số đó, có Đề-bà-đạt-đa là người em họ, muốn giành quyền thống lĩnh Tăng-già, nên rắp tâm tìm cách giết hại ông nhiều lần nhưng không thành. Tuy thế Đề-bà-đạt-đa đã chia rẽ được một số thành viên khỏi Tăng-già ở Phệ-xá-li. Tất-đạt-đa đi con đường trung đạo và tùy thuận chúng sinh, ngược lại Đề-bà-đạt-đa chủ trương một cuộc sống khổ hạnh cực đoan.

Nhập Niết bàn

Trong kinh điển Pali, Phật Thích Ca tại thế tám mươi năm. Tuy trải qua suốt phần đời còn lại - 45 năm đi giảng dạy (có tài liệu nói là 49 năm), nhưng ông lại lưu ý với các đệ tử rằng: Đối với chân lý, Như Lai chưa từng nói lời nào, Ý nghĩa của câu này: những gì Như Lai giác ngộ vốn đã là chân lý từ muôn thuở, tồn tại vĩnh cửu trong khắp các cõi thế gian và vũ trụ, dù có Phật tại thế hay không, dù chúng sinh có biết và có tin hay không thì chân lý đó vẫn tồn tại và chi phối vạn vật. Chân lý đó rất vi diệu, không thể dùng lời nói để diễn tả mà phải tự mình chứng đắc, những lời dạy của Như Lai chỉ là phương tiện để giúp người tu hành tự mình đạt tới chân lý mà thôi (giống như bức ảnh chụp mặt trăng sẽ giúp người ta hiểu mặt trăng trông như thế nào, nhưng không thể nói bức ảnh chính là mặt trăng).

Theo kinh Đại bát-niết-bàn (pi. mahāparinibbāna-sutta), vào mùa mưa năm 80 tuổi, Phật Thích Ca đã dự đoán trước rằng ông sẽ nhập diệt sau 3 tháng nữa. Ông qua đời tại thành phố Câu-thi-na (zh. 拘尸那, sa. Kuṣinagara) của bộ tộc Malla vào năm 544 trước Công nguyên (một số nhà khảo cổ thì cho rằng đó là năm 486 hay 483 trước Công nguyên), địa điểm này được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Utta Pradesh ngày nay. Trước đó sức khoẻ của ông đã trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà người thợ rèn Thuần-đà (zh. 純陀, pi. cunda), một số kinh sách ghi rằng do nguyên liệu nấu ăn có lẫn nấm độc. Tuy nhiên sau đó Phật đã nhấn mạnh cho tôn giả A-nan-đà hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách Thuần-đà bởi ông ta đã có thiện ý tối thượng, còn việc Phật trở bệnh nặng là số mệnh đã được dự đoán từ 3 tháng trước rồi.

Trước khi qua đời, Tất-đạt-đa tạo điều kiện cho các tỳ-kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp nếu như có những vấn đề hay những điểm nào còn chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, tuy nhiên các vị này đã im lặng. Lời dạy cuối cùng của ông: "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tấn tu học (để đạt giải thoát)!".

Tranh vẽ cảnh Phật nhập niết bàn

Theo các Phật tử, ông đã nhập Niết-bàn thông qua các mức thiền định, một trạng thái giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống.

Trưởng lão tỷ-kheo Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) nói pháp thoại ca ngợi công hạnh của Ðức Phật Gautama, rồi kết luận:

Thế Tôn cũng là một con người như chúng ta, nhưng nhờ phát đại nguyện cứu khổ chúng sanh, rồi dũng mãnh tinh tấn tu Bát Chánh Ðạo, thực tập thiền quán mà trở thành bậc Ðại Giác, có đầy đủ trí huệ rộng lớn, đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, có đầy đủ phương tiện thiện xảo chỉ dạy và hướng dẫn chúng sanh hết mê được ngộ, thoát khổ được vui, biết phương pháp tu tập để tự giải thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi, vào cảnh niết-bàn an lạc thanh tịnh. Này các huynh đệ, để đền đáp ơn Thế Tôn, chúng ta hãy nương theo lời giáo huấn của Thế Tôn và noi theo gương sáng của Thế Tôn mà tinh tấn tu tập Bát Chánh Ðạo, cố đạt cho kỳ được mục tiêu giải thoát.

Tương truyền rằng trong buổi trà tỳ kim thân Phật có nhiều hiện tượng lạ xảy ra: hoa mạn đà la bay đầy trời (do các chư thiên cúng dường), và người ta không thể thắp ngọn lửa thiêu xác cho tới khi trưởng lão Tỷ-kheo Maha Kassapa (một trong các vị học trò Tối thắng của Phật) tới nơi để làm lễ.

Mặc dù cuộc đời Thái tử Tất-đạt-đa có nhiều huyền thoại bao phủ nhưng các nhà khảo cổ học và nhân chủng học - vốn hay có nhiều hoài nghi và thành kiến - cũng đều nhất trí công nhận ông là một nhân vật lịch sử có thật và là người đã thành lập ra Phật giáo.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tất-đạt-đa_Cồ-đàm //nla.gov.au/anbd.aut-an35115590 http://mrsp.mcgill.ca/reports/pdfs/Wesak.pdf //www.amazon.com/dp/B0033XUHAO http://www.britannica.com/EBchecked/topic/83105/Bu... http://www.indologica.com/volumes/vol26/vol26_art0... http://www.palitext.com/JPTS_scans/JPTS_2000_XXVI.... http://www.quangduc.com/kinhdien/Trungbo/trungbo03... http://ahandfulofleaves.files.wordpress.com/2011/1... http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://www.indologie.uni-muenchen.de/dokumente/pub...